Mặc dù đã lên kế hoạch cắt giảm lớn ngân sách quốc phòng trong bốn năm tới, Tổng thống Trump vẫn đề xuất thực hiện các dự án lớn, trong đó có việc phát triển một đội tàu phá băng khổng lồ ở Bắc Cực. Ông đã không ngần ngại nhấn mạnh: “Bốn mươi tàu phá băng to lớn của lực lượng Tuần duyên. Những chiếc lớn đó,” ông nói trong một buổi họp báo tại Bắc Carolina.
Con số 40 tàu phá băng này có thể xuất phát từ nỗi lo lắng lâu dài về việc Mỹ đang tụt lại phía sau Nga, quốc gia hiện đang vận hành khoảng 40 tàu phá băng, trong đó có bảy tàu nặng mang tên Polar. Đối lại, lực lượng Tuần duyên Mỹ chỉ sở hữu một tàu phá băng nặng toàn cầu Polar Star đã 49 năm tuổi, nặng 13.000 tấn. Nó được hỗ trợ bởi các tàu phá băng có khả năng trung bình khác như Healy và Storis, trong đó Storis dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động từ Juneau, Alaska vào năm tới.
Không có sự trợ giúp của tàu phá băng, các tàu thông thường chỉ có thể tiếp cận các khu vực Bắc Cực trong vài tháng mùa hè mỗi năm. Trong trường hợp xảy ra xung đột với Nga, sự thiếu hụt tàu phá băng có thể hạn chế khả năng của Lầu Năm Góc trong việc gửi quân đội và thiết bị nặng để củng cố lực lượng mặt đất tại Alaska, nơi hiện có sự hiện diện của Lữ đoàn Không quân số 11, vốn phụ thuộc vào trực thăng và các phương tiện địa hình thích ứng với thời tiết lạnh.
Bảo vệ Alaska là điều rất quan trọng (đặc biệt vì đây là căn cứ của hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ chống lại các tên lửa hạt nhân chiến lược), nhưng còn nhiều lý do khác cũng đang thúc đẩy điều này. Do sự nóng lên toàn cầu, sự tan chảy của băng ở Bắc Cực đang mở ra các khu vực mới xung quanh Bắc Cực cho việc khai thác khoáng sản và dầu mỏ, hoặc để vận chuyển hàng hóa toàn cầu một cách hiệu quả hơn—nếu các tàu có thể tiếp cận với sự trợ giúp của tàu phá băng.
Sự mê hoặc của Trump đối với tàu phá băng cũng có thể phản ánh mối quan tâm của ông về việc mở rộng lãnh thổ của Mỹ ở những nơi như Canada và Greenland thông qua sức mạnh và áp lực kinh tế. Bên cạnh kịch bản về Thế chiến III, còn có nỗi sợ rằng Nga có thể nắm giữ quyền kiểm soát thực tế đối với tài nguyên Bắc Cực trước khi Mỹ kịp hành động.
Dù vậy, Mỹ hiện đang gặp khó khăn trong việc hoàn thành việc xây dựng tàu phá băng nặng mới đầu tiên trong ba tàu đã lên kế hoạch, vì vậy đề xuất của Trump rằng Mỹ sẽ có 40 tàu phá băng là không thực tế. Tuy nhiên, không có nghĩa là Mỹ không thể nhanh chóng có thêm tàu phá băng—có thể thực hiện những cách thức không phổ biến về mặt chính trị.
Tàu phá băng được chế tạo với thân tàu được gia cố đặc biệt và động cơ công suất cao cần thiết để đâm xuyên qua băng và đẩy nó sang một bên, tạo ra các hành lang cho các tàu khác đi qua. Tùy thuộc vào kích thước và sức mạnh động cơ, chúng có thể di chuyển liên tục qua lớp băng dày vài mét với tốc độ như đi bộ, hoặc lao thẳng vào những vùng băng dày đặc hơn, thậm chí có thể vượt lên trên lớp băng và nghiền nát chúng bằng trọng lượng của con tàu.
Do nhu cầu nhiên liệu và năng lượng lớn khi hoạt động, đội tàu phá băng của Nga hiện có tám chiếc tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân (và có thể nhiều hơn trong tương lai). Không có nước nào khác vận hành tàu phá băng hạt nhân, mặc dù Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ xây dựng một chiếc vào thời điểm nào đó.
Bên cạnh các tàu phá băng cực, lực lượng Tuần duyên Mỹ cũng vận hành chín tàu kéo phá băng loại Bay nặng 662 tấn và chiếc tàu đa năng lớn hơn mang tên Mackinaw để hoạt động tại các Hồ Lớn và Bắc Đại Tây Dương. Việc thiếu khả năng phá băng của Mỹ tại các Hồ Lớn đã được báo cáo là gây ra sự mất mát hàng ngàn việc làm và thiệt hại kinh tế lên tới hàng tỷ đô la trong thập kỷ qua.
Thiếu hụt tàu phá băng của lực lượng Tuần duyên đã diễn ra từ đầu những năm 2010. Sau khi tàu Polar Sea, con tàu chị em của Polar Star, bị hỏng và giải thể, lực lượng Tuần duyên nhận thấy cần có từ 4 đến 5 tàu phá băng nặng Polar và từ 4 đến 5 tàu phá băng trung bình Arctic. Vào năm 2019, họ đã ký hợp đồng với một xưởng đóng tàu ở Mississippi để xây dựng chiếc đầu tiên trong ba tàu phá băng nặng 22.900 tấn mang tên Polar Security Cutters.
Thật không may, việc xây dựng tàu phá băng mới lại trùng hợp với một cuộc khủng hoảng kéo dài khác: khả năng đóng tàu của Mỹ đang thiếu hụt nghiêm trọng. Chương trình Polar Security Cutters cũng không ngoại lệ: nó đã bị đội vốn lên tới 60% với tổng chi phí 5,1 tỷ đô la, và con tàu dẫn đầu Polar Sentinel sẽ được bàn giao muộn nhiều năm, có thể vào năm 2030 hoặc sau đó. Do các tàu tiền nhiệm được xây dựng cách đây gần nửa thế kỷ, việc chế tạo tàu phá băng đã trở thành một nghệ thuật bị lãng quên; chuyên môn xây dựng đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, vẫn có cách để Mỹ có thể nhanh chóng mở rộng đội tàu phá băng của mình—bằng cách mua từ nước ngoài từ các đồng minh có khả năng đóng tàu và có kinh nghiệm trong việc xây dựng tàu phá băng như Canada, Iceland và Hàn Quốc.
Ví dụ, lực lượng Tuần duyên Canada đang mua 16 tàu đa năng phá băng nặng 8.987 tấn từ một xưởng đóng tàu ở Vancouver với tổng giá trị 14 tỷ đô la Canada (tương đương 9,9 tỷ đô la Mỹ), một số trong đó sẽ phục vụ tại Bắc Cực. Cũng đáng lưu ý rằng các đồng minh của Mỹ trong NATO (bao gồm cả Canada) có hơn một tá tàu phá băng cực, có thể hỗ trợ Mỹ nếu nước này bị tấn công trực tiếp.
Tất nhiên, việc mua tàu không được sản xuất tại Mỹ là một vấn đề chính trị khó khăn, và Trump đã đe dọa áp đặt thuế nặng đối với thương mại Canada và bày tỏ mong muốn sử dụng “sức mạnh kinh tế” để sáp nhập Canada. Do đó, việc thực hiện các thỏa thuận đóng tàu lâu dài về phía Bắc có thể gặp nhiều khó khăn.
Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/military/navy-ships/a63975726/us-vs-russia-icebreakers/
Con số 40 tàu phá băng này có thể xuất phát từ nỗi lo lắng lâu dài về việc Mỹ đang tụt lại phía sau Nga, quốc gia hiện đang vận hành khoảng 40 tàu phá băng, trong đó có bảy tàu nặng mang tên Polar. Đối lại, lực lượng Tuần duyên Mỹ chỉ sở hữu một tàu phá băng nặng toàn cầu Polar Star đã 49 năm tuổi, nặng 13.000 tấn. Nó được hỗ trợ bởi các tàu phá băng có khả năng trung bình khác như Healy và Storis, trong đó Storis dự kiến sẽ bắt đầu hoạt động từ Juneau, Alaska vào năm tới.
Không có sự trợ giúp của tàu phá băng, các tàu thông thường chỉ có thể tiếp cận các khu vực Bắc Cực trong vài tháng mùa hè mỗi năm. Trong trường hợp xảy ra xung đột với Nga, sự thiếu hụt tàu phá băng có thể hạn chế khả năng của Lầu Năm Góc trong việc gửi quân đội và thiết bị nặng để củng cố lực lượng mặt đất tại Alaska, nơi hiện có sự hiện diện của Lữ đoàn Không quân số 11, vốn phụ thuộc vào trực thăng và các phương tiện địa hình thích ứng với thời tiết lạnh.
Bảo vệ Alaska là điều rất quan trọng (đặc biệt vì đây là căn cứ của hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ chống lại các tên lửa hạt nhân chiến lược), nhưng còn nhiều lý do khác cũng đang thúc đẩy điều này. Do sự nóng lên toàn cầu, sự tan chảy của băng ở Bắc Cực đang mở ra các khu vực mới xung quanh Bắc Cực cho việc khai thác khoáng sản và dầu mỏ, hoặc để vận chuyển hàng hóa toàn cầu một cách hiệu quả hơn—nếu các tàu có thể tiếp cận với sự trợ giúp của tàu phá băng.

Sự mê hoặc của Trump đối với tàu phá băng cũng có thể phản ánh mối quan tâm của ông về việc mở rộng lãnh thổ của Mỹ ở những nơi như Canada và Greenland thông qua sức mạnh và áp lực kinh tế. Bên cạnh kịch bản về Thế chiến III, còn có nỗi sợ rằng Nga có thể nắm giữ quyền kiểm soát thực tế đối với tài nguyên Bắc Cực trước khi Mỹ kịp hành động.
Dù vậy, Mỹ hiện đang gặp khó khăn trong việc hoàn thành việc xây dựng tàu phá băng nặng mới đầu tiên trong ba tàu đã lên kế hoạch, vì vậy đề xuất của Trump rằng Mỹ sẽ có 40 tàu phá băng là không thực tế. Tuy nhiên, không có nghĩa là Mỹ không thể nhanh chóng có thêm tàu phá băng—có thể thực hiện những cách thức không phổ biến về mặt chính trị.

Tàu phá băng được chế tạo với thân tàu được gia cố đặc biệt và động cơ công suất cao cần thiết để đâm xuyên qua băng và đẩy nó sang một bên, tạo ra các hành lang cho các tàu khác đi qua. Tùy thuộc vào kích thước và sức mạnh động cơ, chúng có thể di chuyển liên tục qua lớp băng dày vài mét với tốc độ như đi bộ, hoặc lao thẳng vào những vùng băng dày đặc hơn, thậm chí có thể vượt lên trên lớp băng và nghiền nát chúng bằng trọng lượng của con tàu.
Do nhu cầu nhiên liệu và năng lượng lớn khi hoạt động, đội tàu phá băng của Nga hiện có tám chiếc tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân (và có thể nhiều hơn trong tương lai). Không có nước nào khác vận hành tàu phá băng hạt nhân, mặc dù Trung Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ xây dựng một chiếc vào thời điểm nào đó.
Bên cạnh các tàu phá băng cực, lực lượng Tuần duyên Mỹ cũng vận hành chín tàu kéo phá băng loại Bay nặng 662 tấn và chiếc tàu đa năng lớn hơn mang tên Mackinaw để hoạt động tại các Hồ Lớn và Bắc Đại Tây Dương. Việc thiếu khả năng phá băng của Mỹ tại các Hồ Lớn đã được báo cáo là gây ra sự mất mát hàng ngàn việc làm và thiệt hại kinh tế lên tới hàng tỷ đô la trong thập kỷ qua.
Thiếu hụt tàu phá băng của lực lượng Tuần duyên đã diễn ra từ đầu những năm 2010. Sau khi tàu Polar Sea, con tàu chị em của Polar Star, bị hỏng và giải thể, lực lượng Tuần duyên nhận thấy cần có từ 4 đến 5 tàu phá băng nặng Polar và từ 4 đến 5 tàu phá băng trung bình Arctic. Vào năm 2019, họ đã ký hợp đồng với một xưởng đóng tàu ở Mississippi để xây dựng chiếc đầu tiên trong ba tàu phá băng nặng 22.900 tấn mang tên Polar Security Cutters.
Thật không may, việc xây dựng tàu phá băng mới lại trùng hợp với một cuộc khủng hoảng kéo dài khác: khả năng đóng tàu của Mỹ đang thiếu hụt nghiêm trọng. Chương trình Polar Security Cutters cũng không ngoại lệ: nó đã bị đội vốn lên tới 60% với tổng chi phí 5,1 tỷ đô la, và con tàu dẫn đầu Polar Sentinel sẽ được bàn giao muộn nhiều năm, có thể vào năm 2030 hoặc sau đó. Do các tàu tiền nhiệm được xây dựng cách đây gần nửa thế kỷ, việc chế tạo tàu phá băng đã trở thành một nghệ thuật bị lãng quên; chuyên môn xây dựng đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, vẫn có cách để Mỹ có thể nhanh chóng mở rộng đội tàu phá băng của mình—bằng cách mua từ nước ngoài từ các đồng minh có khả năng đóng tàu và có kinh nghiệm trong việc xây dựng tàu phá băng như Canada, Iceland và Hàn Quốc.
Ví dụ, lực lượng Tuần duyên Canada đang mua 16 tàu đa năng phá băng nặng 8.987 tấn từ một xưởng đóng tàu ở Vancouver với tổng giá trị 14 tỷ đô la Canada (tương đương 9,9 tỷ đô la Mỹ), một số trong đó sẽ phục vụ tại Bắc Cực. Cũng đáng lưu ý rằng các đồng minh của Mỹ trong NATO (bao gồm cả Canada) có hơn một tá tàu phá băng cực, có thể hỗ trợ Mỹ nếu nước này bị tấn công trực tiếp.
Tất nhiên, việc mua tàu không được sản xuất tại Mỹ là một vấn đề chính trị khó khăn, và Trump đã đe dọa áp đặt thuế nặng đối với thương mại Canada và bày tỏ mong muốn sử dụng “sức mạnh kinh tế” để sáp nhập Canada. Do đó, việc thực hiện các thỏa thuận đóng tàu lâu dài về phía Bắc có thể gặp nhiều khó khăn.
Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/military/navy-ships/a63975726/us-vs-russia-icebreakers/