YF-12: Chiếc máy bay siêu tốc Mach 3 từng có thể hạ gục oanh tạc cơ Nga, nhưng tại sao lại không bao giờ được sử dụng?

T
test_vnr
Phản hồi: 0

test_vnr

Writer
Trong một khoảnh khắc rực rỡ, Không quân Hoa Kỳ đã đứng trước cơ hội điều khiển chiến đấu cơ nhanh nhất, có thể nói là "ngầu" nhất trong lịch sử. Máy bay này, YF-12A, là một trong những biến thể được đề xuất thuộc gia đình máy bay tốc độ cao SR-71 Blackbird vào những năm 1960. Tuy nhiên, phiên bản hoạt động của chiếc máy bay này chưa bao giờ được sản xuất, do các sự kiện toàn cầu và sự thay đổi trong chính sách hạt nhân của Hoa Kỳ đã khiến nó trở thành một lựa chọn nghi vấn. Ngày nay, YF-12A vẫn là chiếc máy bay vũ trang đầu tiên mà Hoa Kỳ từng tiến gần đến việc sản xuất, có khả năng bay với tốc độ Mach 3.

Vào ngày 1 tháng 5 năm 1960, Liên Xô đã bắn hạ một chiếc máy bay do thám U-2 trên không phận của mình bằng tên lửa đất đối không S-75 "Dvina". Phi công Francis Gary Powers của CIA đã lái chiếc U-2 bay cao nhưng chậm, chụp ảnh Liên Xô. CIA hy vọng những bức ảnh này sẽ giúp xây dựng ước tính về sức mạnh quân sự của Liên Xô, nhưng việc bắt giữ Powers và mất máy bay đã khiến U-2 không còn an toàn trước sự phòng thủ của không quân Liên Xô. Một chiếc máy bay mới là cần thiết để tiếp tục chương trình bay qua.

yf-12-flying-671fdac5817d2.png


Một chiếc đã được phát triển. Năm 1959, bộ phận Phát triển Nâng cao của Lockheed, hay còn gọi là “Skunk Works”, đã trình bày với CIA kế hoạch cho một chiếc máy bay do thám bay tốc độ Mach 3 mang mật danh Oxcart. Sau này được gọi là A-12, chiếc máy bay này được thiết kế để thực hiện cùng một nhiệm vụ như U-2, với các camera gắn dưới bụng có khả năng chụp ảnh những vùng đất rộng lớn phía dưới. Tuy nhiên, A-12 sẽ bay nhanh hơn và khó bị phát hiện hơn người tiền nhiệm của nó.

A-12 có một thiết kế máy bay tiên phong. Chiếc máy bay dài 30,8 mét, dài hơn hầu hết các máy bay chiến thuật thời đó, và sử dụng hai động cơ turbojet J58 mới được gắn vào đôi cánh, một thiết kế khá độc đáo – thường thì động cơ sẽ được đặt trong thân máy bay. Hai động cơ này, sản sinh tổng cộng 29.500 kg lực đẩy ở chế độ đốt sau, cho phép chiếc máy bay duy trì tốc độ Mach 3.1 – dành cho các hệ thống phòng không như S-75 ít thời gian để phản ứng. Điều này chưa từng có tiền lệ trong thời kỳ mà chiếc máy bay chiến đấu nhanh nhất, F-106 Delta Dart, chỉ có thể duy trì tốc độ Mach 2.6. Thiết kế lớn, hài hòa cho cánh và thân máy bay đã tạo ra không gian nội bộ lớn để chứa nhiên liệu, mang lại khả năng bay 4.600 km trước khi cần tiếp nhiên liệu. Chiếc máy bay sẽ bay ở độ cao lên tới 28.950 mét – cao gấp ba lần đỉnh Everest – cho phép các camera chụp được một tầm nhìn rộng lớn về phong cảnh phía dưới.

a12-flying-671ffd3b9d62c.jpg


A-12 là chiếc máy bay đầu tiên được thiết kế với tính năng tàng hình trong tâm trí. Tổng thống Dwight D. Eisenhower, người đã đặc biệt quan tâm đến chương trình này, muốn chiếc máy bay phải vô hình trước radar, nhằm tránh những sự cố bất tiện khi một chiếc máy bay bị mất tích khi xâm phạm lãnh thổ của kẻ thù. Một nghiên cứu của CIA đã kết luận rằng việc giảm dấu hiệu radar của một chiếc máy bay là khả thi, vì vậy Lockheed đã bắt tay vào việc điều chỉnh thiết kế của A-12, làm mịn càng nhiều bề mặt cánh và thân máy bay càng tốt để giảm thiểu số lượng bề mặt thẳng đứng. Thiết kế còn thay đổi cánh đuôi thẳng đứng lớn của nó thành hai cánh đuôi nghiêng nhỏ hơn. Những cánh đuôi nghiêng này tạo ra bề mặt nhỏ hơn đối mặt với sóng radar, phản xạ ít năng lượng hơn về phía radar của kẻ thù, làm cho máy bay khó bị phát hiện hơn.

Khi A-12 bắt đầu đi vào sản xuất, Lockheed đã lặng lẽ tiếp cận Không quân Hoa Kỳ về một biến thể vũ trang của chiếc máy bay mới này; cho đến lúc đó, Không quân đã bị loại khỏi nỗ lực xây dựng một chiếc máy bay do thám không có vũ trang. Không quân đã đồng ý nồng nhiệt, và ba chiếc A-12 trong sản xuất đã được chuyển hướng đến một chương trình bí mật chỉ được biết đến với tên gọi KEDLOCK. Chiếc máy bay sẽ có một nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ hạt nhân – tiêu diệt các máy bay ném bom của kẻ thù.

Mối đe dọa bị tấn công bởi bom nguyên tử đã trở thành hiện thực khi máy bay B-29 ném bom dài, thả bom nguyên tử xuống các thành phố Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945 và Nagasaki ba ngày sau đó. Khi Liên Xô trở thành quốc gia thứ hai phát triển vũ khí hạt nhân vào năm 1949, mối đe dọa hạt nhân mở rộng chống lại Hoa Kỳ. Tên lửa đạn đạo liên lục địa R-7 của Liên Xô, tên lửa đầu tiên trên thế giới, vẫn chưa đủ sức tấn công thực sự, với tầm bắn chỉ 8.000 km. Đến đầu những năm 1960, máy bay ném bom nặng vẫn là phương tiện chính để chuyển tải bom nguyên tử đến mục tiêu, và Hoa Kỳ tiếp tục phát triển một chiếc máy bay chiến đấu phòng thủ có thể ngăn chặn và tiêu diệt bất kỳ máy bay ném bom nào.

Năm 1953, Không quân bắt đầu phát triển một máy bay đánh chặn mới nhằm bảo vệ Hoa Kỳ và Canada trước các cuộc tấn công của máy bay ném bom Liên Xô. Chiến đấu cơ North American Aviation XF-108 Rapier là một chiếc máy bay lớn được thiết kế để bay với tốc độ Mach 3 và ở độ cao 18.300 mét. Từ vị trí tối cao trên bầu trời, Rapier sẽ đối đầu với các máy bay ném bom Liên Xô khi chúng cố gắng xâm nhập vào không phận Mỹ qua Bắc Cực. Một radar tiên tiến, AN/ASG-18, sẽ cho phép XF-108 phát hiện các máy bay ném bom từ khoảng cách 160 km và bay thấp chỉ từ 150 mét. Rapier được dự tính trang bị ba tên lửa GAR-9A, mỗi tên lửa có tốc độ tối đa Mach 4. Mỗi tên lửa sẽ mang đầu đạn hạt nhân 0,25 kiloton, đảm bảo tiêu diệt máy bay ném bom. Tuy nhiên, chương trình đầy tham vọng đã trở nên quá tốn kém và sự thay đổi trong chiến lược hạt nhân của Mỹ khiến chiếc máy bay trở nên ít cần thiết. Năm 1959, Lầu Năm Góc đã hủy bỏ XF-108 Rapier.

Dù gặp thất bại này, triển vọng về một chiếc máy bay chiến đấu Mach 3 đã làm thỏa mãn cơn khát tốc độ cao của Không quân. Và mặc dù mất đi máy bay Rapier, radar và hệ thống vũ khí chính, AN/ASG-18 và tên lửa GAR-9 vẫn cho thấy triển vọng. Tình hình đã được thiết lập cho một chiếc máy bay mới sẽ kế thừa di sản này. Trong những sa mạc của Nevada, Lockheed đã có câu trả lời cho nhu cầu cấp thiết về một máy bay đánh chặn tốc độ cao mới.

Chương trình KEDLOCK là một nỗ lực bí mật nhằm xây dựng một A-12 vũ trang. Các công nhân Lockheed đã giữ ba chiếc máy bay trên sàn sản xuất A-12, nhưng tách biệt khỏi các dự án khác, để sửa đổi chúng một cách bí mật. Để làm rối trí các điệp viên Liên Xô, chúng mang mã hiệu A-11, một chiếc máy bay do thám bất thành trước đó.

Các YF-12 mà Hoa Kỳ giữ bí mật rất giống với A-12 về mặt ngoại hình, ngoại trừ phần đầu hình chóp tròn giống như chiếc máy bay chiến đấu F-14 Tomcat. Phần chóp này che giấu radar AN/ASG-18 dài 1 m mà không thể vừa với thiết kế mũi của A-12. Điều này đã tạo ra một hình dạng rất khác biệt, giống như một chiếc máy bay chiến đấu.

YF-12 đã thay thế hệ thống camera Perkins Type I của A-12 bằng ba tên lửa GAR-9. Chúng được lưu trữ trong ba khoang tải bên dưới và phía sau buồng lái. YF-12 đã thực hiện bài kiểm tra rơi không có động cơ đầu tiên với một GAR-9 vào tháng 4 năm 1964, nhưng bài kiểm tra không thành công: tên lửa đã tách ra, mũi lên. Nếu một động cơ tên lửa đã được kích nổ, nó sẽ lao thẳng vào buồng lái của máy bay. Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau, một YF-12 đã ghi được mục tiêu không đối không đầu tiên, bắn hạ một mục tiêu từ khoảng cách 58 km. Trong một bài kiểm tra vào tháng 9 năm 1965, một YF-12 đã phóng một GAR-9, từ độ cao 22.860 mét với tốc độ Mach 3.26, ghi được một lần bắn hạ mục tiêu ở khoảng cách tương tự.

YF-12 luôn được thiết kế như một máy bay trình diễn công nghệ. Bây giờ khi công nghệ đã được chứng minh, các kỹ sư đã tiến hành vẽ thiết kế cho phiên bản máy bay sản xuất, chiếc máy bay kết hợp đánh chặn và ném bom, mang mã hiệu FB-12. Thậm chí còn tham vọng hơn YF-12, FB-12 dự kiến sẽ mang theo cả tên lửa GAR-9 (sau này được biết đến như AIM-47 Falcon) và tên lửa tấn công tầm ngắn SRAM. SRAM là một loại tên lửa tấn công hạt nhân từ trên không với tầm bắn khoảng 210 km và đầu đạn 17 kiloton – lớn hơn so với đầu đạn 15 kiloton của quả bom "Little Boy" thả xuống Hiroshima. SRAM sẽ cho phép FB-12 bay sâu vào lãnh thổ Nga, tấn công các mục tiêu mặt đất cùng với các máy bay ném bom hạt nhân lớn hơn.

Không quân đã đảm bảo nguồn tài trợ cho 93 chiến đấu cơ FB-12 – nhưng những chiếc máy bay này chưa bao giờ được xây dựng. Một lần nữa, sự thay đổi trong chiến lược hạt nhân đã để lại những chiếc máy bay không còn vai trò hữu ích. Chính sách quân sự của Hoa Kỳ không còn yêu cầu bắn hạ máy bay ném bom kẻ thù, mà chuyển sang một chiến lược ngăn chặn kẻ thù không phát động tấn công ngay từ đầu. Trong khi đó, một chiếc máy bay ném bom vũ trang bằng tên lửa hạt nhân tầm ngắn đã cạnh tranh trong ngân sách của Không quân với chiếc máy bay ném bom XB-70 Valkyrie có khả năng Mach 3. FB-12 rất nhanh, nhưng không thể đuổi theo một thế giới đang thay đổi. Dù đã rất gần, chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ cho ra đời một chiếc máy bay đánh chặn Mach 3.

Theo thời gian, thiết kế máy bay chiến đấu đã giảm bớt sự chú trọng vào tốc độ, mà thiên về khả năng cơ động, sức chứa vũ khí, phạm vi bay và tính năng tàng hình. Nhưng bạn vẫn có thể thấy một trong ba chiếc YF-12A còn lại đang trưng bày tại Bảo tàng Không quân Hoa Kỳ ở Dayton, Ohio. NASA đã thuê hai chiếc còn lại cho mục đích nghiên cứu.

Dòng A-12 đã để lại một di sản tự hào với 32 chiếc SR-71 Blackbirds – với sức mạnh cơ bắp của chúng, Blackbird có thể được coi là hậu duệ trực tiếp của A-12. Cuối cùng, Không quân đã có chiếc máy bay có khả năng Mach 3, ít nhất cho đến khi chúng bị nghỉ hưu vào năm 1999.

Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/military/aviation/a62738865/yf-12-mach-3-fighter-jet/
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga

Thành viên mới đăng

Back
Top