Vào ngày 12 tháng 11, Hàn Quốc đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử. Trong một ngày thu tươi sáng ở Biển Nhật Bản, một chiếc drone không người lái Mojave đã cất cánh từ tàu chiến hải quân ROKS Dokdo của Hàn Quốc. Con tàu này, với hình dáng giống như một tàu sân bay với đảo điều khiển, boong tàu và hàng trăm người xem đứng bên lề, đã phóng Mojave lên bầu trời. Chiếc drone lượn vòng, thực hiện hai cuộc hạ cánh giả định và hạ cánh an toàn trên đất liền. Không ai có thể ngờ rằng người điều khiển thực sự của nó lại cách đó hàng trăm kilomet, ở trên bờ.
Với sức mạnh của công nghệ drone, Hàn Quốc chính thức gia nhập vào câu lạc bộ các quốc gia tinh hoa có khả năng phóng máy bay từ tàu. Cột mốc này cũng chứng minh rằng cuộc cách mạng drone đang sẵn sàng giải quyết hai vấn đề khó khăn nhất của tàu sân bay: thiếu máy bay và thiếu tàu sân bay. Những chiếc drone, với giá thành rẻ, hiệu quả và nhanh chóng hơn so với máy bay có người lái, đang chuẩn bị thường trực trên các boong tàu sân bay trên khắp thế giới. Bên cạnh Hàn Quốc, các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Australia, Nhật Bản và Thái Lan cũng có thể hưởng lợi từ thế hệ drone cất cánh và hạ cánh ngắn (STOL) mới này.
Mặc dù là một cường quốc hải quân, Hàn Quốc chưa từng vận hành máy bay cánh cố định trên tàu sân bay. Kỹ thuật mà nói, thì họ vẫn chưa thực sự làm điều đó: ROKS Dokdo là một tàu tấn công đổ bộ, được thiết kế để thực hiện một chiến dịch “Hail Mary” trong thời chiến, phóng quân lính bằng xuồng cao su và trực thăng nhằm tấn công vào thủ đô Bình Nhưỡng của Triều Tiên, tiêu diệt hoặc bắt giữ lãnh đạo Kim Jong-un trước khi ông ta có thể phóng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, Dokdo không được thiết kế để vận hành máy bay cánh cố định: boong tàu chỉ dài 180 mét không đủ để vận hành máy bay cánh cố định như F/A-18E/F Super Hornet của Hải quân Mỹ. Các thang máy của nó, được thiết kế để chuyển trực thăng giữa boong và khoang chứa, cũng không thể chịu được trọng lượng của Super Hornet hay F-35B Lightning II mới hơn.
Và đây chính là lúc Mojave xuất hiện. Ra mắt vào năm 2021 bởi General Atomics, chiếc drone này được phát triển như một phiên bản biển của drone MQ-1C Gray Eagle của quân đội Mỹ, một "em nhỏ" của drone MQ-9 Reaper của không quân. Với chiều dài 8,8 mét và sải cánh 15,8 mét, Mojave có thể bay liên tục lên tới 25 giờ với tốc độ tối đa 260 km/h. Chiếc drone này được thiết kế lại cho việc cất cánh và hạ cánh ngắn; nó chỉ cần 120 mét đường băng thô để cất cánh. General Atomics gợi ý rằng có thể sử dụng những bãi đất được dọn sạch bằng đất, cỏ, thậm chí "một sân bóng đá trong khu phố". Công ty cũng đề cập đến một vị trí hoạt động khác mà những drone cũ không thể tận dụng: các tàu.
Mojave có khả năng mang theo tới 1.500 kg vũ khí, bao gồm lên tới 16 tên lửa Hellfire chống tăng. Các loại tải trọng khác có thể bao gồm bom dẫn đường bằng laser Paveway, bom dẫn đường vệ tinh JDAM, và bom nhỏ GBU-39B. Chiếc drone này thậm chí có thể được cấu hình để trở thành một máy bay chiến đấu; hồi đầu năm nay, General Atomics đã lắp đặt cho một chiếc Mojave hai pod súng DAP-6 của Dillon Aero. Pod DAP-6 là một pod tích hợp tất cả trong một, trang bị một súng Gatling M134D-H 7,62mm có khả năng bắn tới 3.000 phát mỗi phút. Trong một thử nghiệm vào tháng 4 năm 2024 tại Yuma Proving Ground, một chiếc Mojave đã bắn gần 10.000 phát vào các mục tiêu mặt đất trong bảy lượt bay. Drone này có thể dễ dàng trang bị bốn pod súng, gấp đôi sức mạnh hỏa lực của nó.
Drone Mojave cũng rất đa năng. Nó có thể mang camera quang học để thực hiện các nhiệm vụ giám sát, radar synthetic aperture để theo dõi các phương tiện mặt đất ở khoảng cách xa, và hoạt động như một cầu nối trên không để truyền thông tin và dữ liệu. Nó cũng có thể được cấu hình thành một nền tảng thu thập thông tin tình báo tín hiệu (SIGINT), ghi lại tín hiệu radar và thông tin liên lạc của kẻ thù để phân tích. Trong một trường hợp khẩn cấp, các pod cargo gắn trên cánh cho phép nó vận chuyển tới 450 kg hàng hóa cho các lực lượng thân thiện.
Thế giới của các máy bay cánh cố định hoạt động trên tàu sân bay là thế giới của những chiếc máy bay phản lực nhanh, hiệu suất cao thường có khả năng tàng hình, radar mạnh mẽ và có khả năng mang theo khối lượng lớn vũ khí không đối không và không đối đất vào chiến đấu. Chỉ có một số ít máy bay chiến đấu đang sản xuất thống trị các boong tàu sân bay: F-35C và F-35B của Mỹ, Rafale M của Pháp, và J-15 cùng J-35 của Trung Quốc. Mặc dù rất mạnh, những máy bay này chỉ có thể hoạt động trên các tàu sân bay chuyên dụng, yêu cầu những con tàu lớn, đặc biệt và đắt tiền.
Các drone STOL như Mojave thì lại thuộc một loại khác so với những máy bay chiến đấu hiện đại trên tàu sân bay, nằm giữa một máy bay chiến đấu như F-35B và trực thăng trên tàu như MH-60S Seahawk. Chậm và thiếu cả khả năng cơ động lẫn tàng hình, các drone STOL không thể tham gia chiến đấu với các hệ thống phòng không tiên tiến như S-400 của Nga hay máy bay J-20 của Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm mạnh của chúng là có giá thành tương đối rẻ (32 triệu USD so với 100 triệu USD cho F-35B Lightning II), dễ sản xuất và có thể tái cấu hình nhanh chóng để phục vụ cho nhiều nhiệm vụ khác nhau. F-35 có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ của Mojave, nhưng giao hàng hóa không phải là một trong số đó.
Các máy bay vận hành trên tàu sân bay hiện đại được tối ưu hóa cho chiến đấu cường độ cao, công nghệ cao. Các drone STOL có khả năng điều chỉnh cho các cuộc chiến thấp hơn với các mối đe dọa ít tinh vi hơn. Có nhiều nhiệm vụ mà một F-35B, với chi phí hoạt động khoảng 6,8 triệu USD mỗi năm, là thừa thãi cả về chi phí và khả năng. Một drone có động cơ chậm, chạy bằng cánh quạt và có khả năng chờ lâu hoàn hảo cho việc đối đầu với một kẻ thù không có hệ thống phòng không, chẳng hạn như Taliban ở Afghanistan hoặc các tay súng Al-Qaeda ở Châu Phi.
Trên thế giới có nhiều hải quân có tàu đủ khả năng để vận hành các drone STOL. Australia sở hữu hai tàu đổ bộ Canberra và Adelaide, mỗi tàu có boong dài 202 mét, đủ để phóng một chiếc Mojave mang theo một số tên lửa Hellfire. Tàu Juan Carlos I của Tây Ban Nha gần như giống hệt với những con tàu của Australia. Tàu Dokdo của Hàn Quốc có một tàu chị em, Marado, và Nhật Bản cũng đang vận hành hai tàu khu trục trực thăng Hyuga và Ise. Brazil, với lịch sử lâu dài trong việc vận hành các tàu sân bay thực thụ, hiện đang điều hành tàu vận tải commando Atlântico do Hải quân Hoàng gia Anh cung cấp và có kế hoạch cho drone cất cánh từ tàu này.
Một quốc gia đáng để theo dõi trong thế giới các tàu sân bay STOL là Thổ Nhĩ Kỳ. TCG Anadolu, một tàu chị em với lớp Canberra và Juan Carlos, sẽ hoạt động với tối đa 30 drone TB-3 do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất. TB-3 là phiên bản tối ưu hóa cho tàu sân bay của TB-2 Bayraktar, đã nổi tiếng vì hỗ trợ quốc phòng Ukraine vào đầu cuộc xâm lược Nga năm 2022. Thực tế là các drone này được cung cấp từ ngành công nghiệp quốc phòng đang bùng nổ của Thổ Nhĩ Kỳ nghĩa là Anadolu rất có thể sẽ nhận được các drone mới và cải tiến nhanh hơn hầu hết các quốc gia khác.
Ngay cả những tàu sân bay lớn cũng sẽ tham gia vào hoạt động của drone STOL. Vào mùa thu năm 2023, HMS Prince of Wales của Hải quân Hoàng gia đã thực hiện thành công các thử nghiệm trên biển với drone Mojave, bao gồm cả việc cất cánh và hạ cánh. Hải quân Mỹ dự kiến sẽ vận hành 22 drone MQ-25 Stingray vào năm 2028, và đã để ngỏ khả năng rằng tới 60% biên chế không quân của tàu sân bay có thể là không người lái vào năm 2040. Trong thời gian tới, không có lý do gì mà tàu Prince of Wales hay một tàu lớp Bush không thể thêm 10-20 drone STOL vào nhóm máy bay chiến đấu hiệu suất cao hiện có của họ. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn mở rộng khả năng của tàu sân bay trước các mối đe dọa thấp hơn.
Các drone như Mojave hoặc TB-3 có thể không phù hợp cho chiến đấu công nghệ cao, nhưng trong dài hạn, các drone sẽ ngày càng trở nên nhanh hơn, tàng hình hơn và nguy hiểm hơn, mang lại sức mạnh lớn hơn cho các hải quân nhỏ hơn. Cũng giống như drone MQ-1 Predator chậm chạp, chạy bằng cánh quạt của không quân trong những năm 2000 dẫn đến những máy bay chiến đấu kiểu jet như Collaborative Combat Aircraft hiện nay, chúng ta chắc chắn sẽ thấy các drone STOL như Mojave chuyển sang những drone có khả năng cất cánh và hạ cánh thẳng đứng, tương tự như máy bay chiến đấu.
Các drone đang làm thay đổi hình thức chiến tranh như chúng ta đã biết, và có những cuộc thảo luận công khai đặt câu hỏi về việc liệu các nền tảng lớn như tàu sân bay có thực sự dễ bị tổn thương hay không. Nhưng bí mật của tàu sân bay hiện đại là nó hấp thụ mọi công nghệ đe dọa nó — như vũ khí hạt nhân, tên lửa dẫn đường, và giờ đây là drone — và sau đó đưa nó lên boong, khiến các con tàu trở nên liên quan hơn bao giờ hết. Thay vì đẩy tàu sân bay đến bờ vực lỗi thời, các drone sẽ không chỉ làm cho chúng trở nên đặc biệt liên quan mà còn biến nhiều tàu thành tàu sân bay hơn.
Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/mi...44/drones-reshaping-aircraft-carrier-warfare/
Với sức mạnh của công nghệ drone, Hàn Quốc chính thức gia nhập vào câu lạc bộ các quốc gia tinh hoa có khả năng phóng máy bay từ tàu. Cột mốc này cũng chứng minh rằng cuộc cách mạng drone đang sẵn sàng giải quyết hai vấn đề khó khăn nhất của tàu sân bay: thiếu máy bay và thiếu tàu sân bay. Những chiếc drone, với giá thành rẻ, hiệu quả và nhanh chóng hơn so với máy bay có người lái, đang chuẩn bị thường trực trên các boong tàu sân bay trên khắp thế giới. Bên cạnh Hàn Quốc, các nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Australia, Nhật Bản và Thái Lan cũng có thể hưởng lợi từ thế hệ drone cất cánh và hạ cánh ngắn (STOL) mới này.

Mặc dù là một cường quốc hải quân, Hàn Quốc chưa từng vận hành máy bay cánh cố định trên tàu sân bay. Kỹ thuật mà nói, thì họ vẫn chưa thực sự làm điều đó: ROKS Dokdo là một tàu tấn công đổ bộ, được thiết kế để thực hiện một chiến dịch “Hail Mary” trong thời chiến, phóng quân lính bằng xuồng cao su và trực thăng nhằm tấn công vào thủ đô Bình Nhưỡng của Triều Tiên, tiêu diệt hoặc bắt giữ lãnh đạo Kim Jong-un trước khi ông ta có thể phóng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, Dokdo không được thiết kế để vận hành máy bay cánh cố định: boong tàu chỉ dài 180 mét không đủ để vận hành máy bay cánh cố định như F/A-18E/F Super Hornet của Hải quân Mỹ. Các thang máy của nó, được thiết kế để chuyển trực thăng giữa boong và khoang chứa, cũng không thể chịu được trọng lượng của Super Hornet hay F-35B Lightning II mới hơn.
Và đây chính là lúc Mojave xuất hiện. Ra mắt vào năm 2021 bởi General Atomics, chiếc drone này được phát triển như một phiên bản biển của drone MQ-1C Gray Eagle của quân đội Mỹ, một "em nhỏ" của drone MQ-9 Reaper của không quân. Với chiều dài 8,8 mét và sải cánh 15,8 mét, Mojave có thể bay liên tục lên tới 25 giờ với tốc độ tối đa 260 km/h. Chiếc drone này được thiết kế lại cho việc cất cánh và hạ cánh ngắn; nó chỉ cần 120 mét đường băng thô để cất cánh. General Atomics gợi ý rằng có thể sử dụng những bãi đất được dọn sạch bằng đất, cỏ, thậm chí "một sân bóng đá trong khu phố". Công ty cũng đề cập đến một vị trí hoạt động khác mà những drone cũ không thể tận dụng: các tàu.

Mojave có khả năng mang theo tới 1.500 kg vũ khí, bao gồm lên tới 16 tên lửa Hellfire chống tăng. Các loại tải trọng khác có thể bao gồm bom dẫn đường bằng laser Paveway, bom dẫn đường vệ tinh JDAM, và bom nhỏ GBU-39B. Chiếc drone này thậm chí có thể được cấu hình để trở thành một máy bay chiến đấu; hồi đầu năm nay, General Atomics đã lắp đặt cho một chiếc Mojave hai pod súng DAP-6 của Dillon Aero. Pod DAP-6 là một pod tích hợp tất cả trong một, trang bị một súng Gatling M134D-H 7,62mm có khả năng bắn tới 3.000 phát mỗi phút. Trong một thử nghiệm vào tháng 4 năm 2024 tại Yuma Proving Ground, một chiếc Mojave đã bắn gần 10.000 phát vào các mục tiêu mặt đất trong bảy lượt bay. Drone này có thể dễ dàng trang bị bốn pod súng, gấp đôi sức mạnh hỏa lực của nó.
Drone Mojave cũng rất đa năng. Nó có thể mang camera quang học để thực hiện các nhiệm vụ giám sát, radar synthetic aperture để theo dõi các phương tiện mặt đất ở khoảng cách xa, và hoạt động như một cầu nối trên không để truyền thông tin và dữ liệu. Nó cũng có thể được cấu hình thành một nền tảng thu thập thông tin tình báo tín hiệu (SIGINT), ghi lại tín hiệu radar và thông tin liên lạc của kẻ thù để phân tích. Trong một trường hợp khẩn cấp, các pod cargo gắn trên cánh cho phép nó vận chuyển tới 450 kg hàng hóa cho các lực lượng thân thiện.
Thế giới của các máy bay cánh cố định hoạt động trên tàu sân bay là thế giới của những chiếc máy bay phản lực nhanh, hiệu suất cao thường có khả năng tàng hình, radar mạnh mẽ và có khả năng mang theo khối lượng lớn vũ khí không đối không và không đối đất vào chiến đấu. Chỉ có một số ít máy bay chiến đấu đang sản xuất thống trị các boong tàu sân bay: F-35C và F-35B của Mỹ, Rafale M của Pháp, và J-15 cùng J-35 của Trung Quốc. Mặc dù rất mạnh, những máy bay này chỉ có thể hoạt động trên các tàu sân bay chuyên dụng, yêu cầu những con tàu lớn, đặc biệt và đắt tiền.
Các drone STOL như Mojave thì lại thuộc một loại khác so với những máy bay chiến đấu hiện đại trên tàu sân bay, nằm giữa một máy bay chiến đấu như F-35B và trực thăng trên tàu như MH-60S Seahawk. Chậm và thiếu cả khả năng cơ động lẫn tàng hình, các drone STOL không thể tham gia chiến đấu với các hệ thống phòng không tiên tiến như S-400 của Nga hay máy bay J-20 của Trung Quốc. Tuy nhiên, điểm mạnh của chúng là có giá thành tương đối rẻ (32 triệu USD so với 100 triệu USD cho F-35B Lightning II), dễ sản xuất và có thể tái cấu hình nhanh chóng để phục vụ cho nhiều nhiệm vụ khác nhau. F-35 có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ của Mojave, nhưng giao hàng hóa không phải là một trong số đó.
Các máy bay vận hành trên tàu sân bay hiện đại được tối ưu hóa cho chiến đấu cường độ cao, công nghệ cao. Các drone STOL có khả năng điều chỉnh cho các cuộc chiến thấp hơn với các mối đe dọa ít tinh vi hơn. Có nhiều nhiệm vụ mà một F-35B, với chi phí hoạt động khoảng 6,8 triệu USD mỗi năm, là thừa thãi cả về chi phí và khả năng. Một drone có động cơ chậm, chạy bằng cánh quạt và có khả năng chờ lâu hoàn hảo cho việc đối đầu với một kẻ thù không có hệ thống phòng không, chẳng hạn như Taliban ở Afghanistan hoặc các tay súng Al-Qaeda ở Châu Phi.
Trên thế giới có nhiều hải quân có tàu đủ khả năng để vận hành các drone STOL. Australia sở hữu hai tàu đổ bộ Canberra và Adelaide, mỗi tàu có boong dài 202 mét, đủ để phóng một chiếc Mojave mang theo một số tên lửa Hellfire. Tàu Juan Carlos I của Tây Ban Nha gần như giống hệt với những con tàu của Australia. Tàu Dokdo của Hàn Quốc có một tàu chị em, Marado, và Nhật Bản cũng đang vận hành hai tàu khu trục trực thăng Hyuga và Ise. Brazil, với lịch sử lâu dài trong việc vận hành các tàu sân bay thực thụ, hiện đang điều hành tàu vận tải commando Atlântico do Hải quân Hoàng gia Anh cung cấp và có kế hoạch cho drone cất cánh từ tàu này.
Một quốc gia đáng để theo dõi trong thế giới các tàu sân bay STOL là Thổ Nhĩ Kỳ. TCG Anadolu, một tàu chị em với lớp Canberra và Juan Carlos, sẽ hoạt động với tối đa 30 drone TB-3 do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất. TB-3 là phiên bản tối ưu hóa cho tàu sân bay của TB-2 Bayraktar, đã nổi tiếng vì hỗ trợ quốc phòng Ukraine vào đầu cuộc xâm lược Nga năm 2022. Thực tế là các drone này được cung cấp từ ngành công nghiệp quốc phòng đang bùng nổ của Thổ Nhĩ Kỳ nghĩa là Anadolu rất có thể sẽ nhận được các drone mới và cải tiến nhanh hơn hầu hết các quốc gia khác.
Ngay cả những tàu sân bay lớn cũng sẽ tham gia vào hoạt động của drone STOL. Vào mùa thu năm 2023, HMS Prince of Wales của Hải quân Hoàng gia đã thực hiện thành công các thử nghiệm trên biển với drone Mojave, bao gồm cả việc cất cánh và hạ cánh. Hải quân Mỹ dự kiến sẽ vận hành 22 drone MQ-25 Stingray vào năm 2028, và đã để ngỏ khả năng rằng tới 60% biên chế không quân của tàu sân bay có thể là không người lái vào năm 2040. Trong thời gian tới, không có lý do gì mà tàu Prince of Wales hay một tàu lớp Bush không thể thêm 10-20 drone STOL vào nhóm máy bay chiến đấu hiệu suất cao hiện có của họ. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn mở rộng khả năng của tàu sân bay trước các mối đe dọa thấp hơn.
Các drone như Mojave hoặc TB-3 có thể không phù hợp cho chiến đấu công nghệ cao, nhưng trong dài hạn, các drone sẽ ngày càng trở nên nhanh hơn, tàng hình hơn và nguy hiểm hơn, mang lại sức mạnh lớn hơn cho các hải quân nhỏ hơn. Cũng giống như drone MQ-1 Predator chậm chạp, chạy bằng cánh quạt của không quân trong những năm 2000 dẫn đến những máy bay chiến đấu kiểu jet như Collaborative Combat Aircraft hiện nay, chúng ta chắc chắn sẽ thấy các drone STOL như Mojave chuyển sang những drone có khả năng cất cánh và hạ cánh thẳng đứng, tương tự như máy bay chiến đấu.
Các drone đang làm thay đổi hình thức chiến tranh như chúng ta đã biết, và có những cuộc thảo luận công khai đặt câu hỏi về việc liệu các nền tảng lớn như tàu sân bay có thực sự dễ bị tổn thương hay không. Nhưng bí mật của tàu sân bay hiện đại là nó hấp thụ mọi công nghệ đe dọa nó — như vũ khí hạt nhân, tên lửa dẫn đường, và giờ đây là drone — và sau đó đưa nó lên boong, khiến các con tàu trở nên liên quan hơn bao giờ hết. Thay vì đẩy tàu sân bay đến bờ vực lỗi thời, các drone sẽ không chỉ làm cho chúng trở nên đặc biệt liên quan mà còn biến nhiều tàu thành tàu sân bay hơn.
Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/mi...44/drones-reshaping-aircraft-carrier-warfare/