Khám phá sức mạnh vượt trội của tàu sân bay USS Gerald R. Ford: Điều gì làm nên sự khác biệt?

T
test_vnr
Phản hồi: 0

test_vnr

Writer
Vào mùa hè năm 2021, Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện một động thái gây bất ngờ: họ tấn công một trong những tàu chiến của chính mình. Chiếc tàu sân bay mới tinh USS Gerald R. Ford được neo đậu ngoài bờ Đông nước Mỹ và đã phải chịu đựng một chuỗi các vụ nổ dưới nước, culminated bằng một cú tấn công mạnh mẽ với 18.144 kg TNT vào thân tàu. Những thử nghiệm này được thiết kế nhằm đảm bảo rằng USS Ford có khả năng bảo vệ cho 5.000 thủy thủ, nhiều hơn số quân nhân đã tử trận trong cuộc tấn công tại Trân Châu Cảng.

Hơn 80 năm qua, Hải quân Mỹ đã vận hành đội tàu sân bay lớn và mạnh nhất thế giới; với 11 chiếc tàu, họ chở hơn 400 chiến đấu cơ và có tổng cộng hơn 55.000 thủy thủ. Đa phần đội tàu này bao gồm 10 chiếc tàu sân bay lớp Nimitz được xây dựng từ những năm 1960 đến 1990. Đến những năm 2000, rõ ràng thiết kế từ những năm 50 của tàu Nimitz đã cản trở khả năng áp dụng công nghệ hiện đại. Các tàu Nimitz sử dụng catapult hơi nước để phóng máy bay, một hệ thống yêu cầu dẫn hơi nước qua những ống lớn cồng kềnh từ nồi hơi đến các bể chứa ngay dưới boong bay. Hơn nữa, các tàu này còn dùng thiết kế lò phản ứng hạt nhân Westinghouse A4W cũ, chiếm nhiều không gian hơn so với các lò phản ứng thế hệ mới và không thể đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của tàu sân bay, đặc biệt khi các máy tính, cảm biến và vũ khí năng lượng định hướng trong tương lai yêu cầu năng lượng nhiều hơn.

in-this-handout-photo-provided-by-the-u-s-navy-the-future-news-photo-1583962597.jpg


Vào năm 2008, Hải quân đã đặt hàng lớp tàu sân bay mới đầu tiên sau 40 năm. Lớp tàu Ford được thiết kế để bổ sung và cuối cùng thay thế các tàu Nimitz bắt đầu từ năm 2026. USS Gerald R. Ford là chiếc đầu tiên trong lớp tàu mới này, gọi là lớp Gerald R. Ford. Các tàu này cũng được thiết kế với tuổi thọ cực kỳ dài; trong khi các tàu Nimitz có tuổi thọ hoạt động khoảng 40 năm, Hải quân Mỹ kỳ vọng có thể sử dụng các tàu mới này trên 90 năm bằng cách dễ dàng nâng cấp khi các công nghệ mới xuất hiện.

Với chiều dài 333 mét và chiều rộng 76,8 mét, các tàu lớp Ford có kích thước tương đương với các tàu tiền nhiệm, nhưng dự kiến sẽ nhẹ hơn 3.600 tấn; con số này tương đương với một chiếc tàu chiến littoral lớp Freedom. Việc tiết kiệm trọng lượng chủ yếu đến từ lò phản ứng nhỏ hơn và số lượng chức năng tự động tăng lên — việc tự động hóa nhiều hơn giúp giảm 20% số thủy thủ và loại bỏ một số thiết bị và vật tư cần thiết để duy trì họ. Một khác biệt đáng kể về mặt hình thức là vị trí của “đảo” tàu, nơi điều hành các hoạt động bay. Các nhà thiết kế đã di chuyển nó xa về phía sau, giúp thủy thủ dễ dàng di chuyển máy bay và đạn dược qua boong bay.

36220321-680ba6d5210fb.jpg


Bên trong tàu, hình dáng không còn giống như lớp Nimitz. Tàu sân bay lớp Ford được trang bị nhiều đổi mới công nghệ nhằm tối đa hóa hiệu suất ngay bây giờ và phục vụ cho việc nâng cấp trong tương lai. Công nghệ mới quan trọng nhất là Hệ thống Phóng Máy bay Điện từ (EMALS), sử dụng điện để nạp năng lượng cho một hàng các dải từ tính dài chạy suốt boong bay. Những dải này tạo ra các trường từ mạnh có khả năng tăng tốc một thiết bị gắn vào bánh đáp của máy bay, phóng nó ra khỏi boong bay.

Hệ thống EMALS mới tạo ra những lần cất cánh êm ái hơn, giúp giảm thiểu sự hao mòn cho phi công và máy bay. EMALS cũng nhanh hơn hệ thống hơi nước cũ, phóng máy bay mỗi 45 giây. Hệ thống này còn linh hoạt hơn, cho phép thủy thủ tùy chỉnh sao cho phù hợp với các máy bay hay phương tiện bay không người lái.

poster.jpg


Ngoài ra, còn có một số trang thiết bị mới khác như hệ thống radar đa năng AN/SPY-3, được thiết kế để phát hiện các tên lửa hành trình chống tàu bay thấp; hệ thống phanh máy bay mới (AAG) giúp giảm tốc độ máy bay khi hạ cánh; và thang máy vũ khí mới giúp vận chuyển vũ khí từ sâu bên trong tàu lên máy bay chờ đợi bên trên.

Ở cấp độ cơ bản, tàu sân bay là những chiếc thuyền lớn với đường bay; sức mạnh thực sự của chúng nằm ở đội bay trên tàu. Đội Bay Tàu sân bay USS Ford (CVW-8) bao gồm hơn 70 máy bay cánh cố định, máy bay quay và trực thăng. Một đội bay hiện đại, như trên USS Gerald R. Ford, được cấu thành từ ba đội máy bay tiêm kích F/A-18E Super Hornet một chỗ ngồi và một đội máy bay tiêm kích hai chỗ ngồi F/A-18F Super Hornet. Mỗi loại đều có khả năng như nhau trong các vai trò chiến đấu trên không và tấn công xuống đất. Khi máy bay F-35C Lightning II gia nhập đội bay, các tiêm kích thế hệ thứ năm mới sẽ dần thay thế các Super Hornet cũ; khoảng một nửa số đội tiêm kích sẽ cuối cùng vận hành F-35C.

Các máy bay tiêm kích Super Hornet của Ford mang theo nhiều loại tên lửa để nhắm mục tiêu vào máy bay địch, drone và tên lửa. Tên lửa AIM-9X Sidewinder ngắn hạn rất lý tưởng cho các cuộc chiến với drone hoặc trong các trận không chiến với máy bay có người lái; tên lửa AIM-120 AMRAAM có thể tấn công các mối đe dọa từ xa tới 145 km. Một F/A-18E/F có thể được trang bị tới chín tên lửa không đối không cùng lúc, nhiều hơn bất kỳ loại máy bay tiêm kích nào khác của Mỹ. Vào năm 2024, Hải quân chính thức đặt cho một chiếc Super Hornet mang bốn AIM-9X và năm AIM-120 tên là “Murder Hornet” sau khi loại ong khổng lồ được phát hiện ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2020.

Cùng lúc đó, Hải quân đang thử nghiệm tên lửa không đối không mới đầu tiên trong 40 năm qua, AIM-260 Joint Advanced Tactical Missile, sẽ thay thế AMRAAM. Năm 2024, họ công bố AIM-174B, một phiên bản không đối không của tên lửa SM-6 trên tàu. Nó có tầm bắn hơn 320 km, gấp đôi tầm bắn của các tên lửa trước đó. Cả hai tên lửa này sẽ cho phép các máy bay tiêm kích Hải quân “bắn trước” các máy bay Trung Quốc và Nga, nhắm mục tiêu chúng từ khoảng cách cực xa.

Các mối đe dọa từ đất và biển sẽ không khá hơn đối với đội bay của Ford. Các Super Hornets có thể nhắm mục tiêu đến các tàu chiến với tên lửa chống tàu AGM-84 Harpoon cũ và tên lửa chống tàu tầm xa AGM-158C Long Range Anti-Ship Missile, sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện, phân loại và vượt qua các phòng thủ của kẻ thù, nhằm vào các mục tiêu như tàu sân bay hoặc tàu chở quân. Các máy bay trên tàu cũng có thể rải mìn với hệ thống Quicksink, biến một quả bom nổ mạnh 900 kg thành một quả mìn thông minh nhắm mục tiêu cả tàu chiến mặt nước và tàu ngầm. Đối với các mục tiêu trên đất, F/A-18E/F có thể mang theo nhiều loại bom và tên lửa, bao gồm bom nổ mạnh không điều khiển thông thường, loạt bom điều khiển bằng laser Paveway, bom dẫn đường vệ tinh JDAM, quả bom glider AGM-154 Joint Standoff Weapon, và tên lửa hành trình tấn công đất SLAM-ER.

Một đội bay cũng thường bao gồm một đội máy bay EA-18G Growler, loại máy bay tấn công điện tử. Là phiên bản của Super Hornet, Growler được thiết kế để xác định, nhận diện và tấn công các hệ thống radar mặt đất của kẻ địch. Sau khi phi công xác định vị trí một căn cứ của địch, Growler có thể làm nhiễu radar — khiến chúng không thể phát hiện máy bay hoặc phát động một cuộc tấn công động với tên lửa chống radar AARGM-ER.

Phần còn lại của đội bay bao gồm bốn máy bay E-2D Advanced Hawkeye — một loại radar bay giúp chỉ huy các phi công trong trận không chiến ở khoảng cách xa. Mười chín trực thăng MH-60S và MH-60R Seahawk được phân công cho đội tàu chạy cùng Ford, gọi là nhóm tác chiến tàu sân bay. Một số trực thăng bay trực tiếp từ tàu sân bay trong khi những chiếc khác được phân công cho các tuần dương hạm, khu trục hạm và các tàu chiến khác. Các chiếc Seahawk có thể thực hiện nhiệm vụ tấn công bề mặt, vận chuyển lính SEAL của Hải quân, chuyển hàng hóa giữa các tàu và tìm kiếm tàu ngầm. Cuối cùng, một cặp máy bay CMV-22B Osprey có vai trò như những chiếc xe tải vận tải đường dài của tàu, chở người, hàng hóa, và thậm chí cả thư từ cảng lân cận tới tàu sân bay đang ở trên biển.

Việc đặt tất cả sức mạnh này lên một chiếc tàu đơn lẻ là một bước nhảy vọt lớn. Trong khi một tàu sân bay hiện đại được bảo vệ bởi một đội quân bảo vệ gồm các tàu tuần dương, khu trục và cả tàu ngầm, thì chính tàu cũng có thể là mục tiêu của các tên lửa hành trình chống tàu, tên lửa siêu thanh và thậm chí là tên lửa đạn đạo. Một số trong các loại vũ khí này có thể vượt qua các phòng thủ của tàu sân bay, và mặc dù việc xác định độ chính xác của các cú đánh trực tiếp là rất khó, ngay cả một cú gần trúng cũng có thể gây thiệt hại đáng kể. USS Gerald R. Ford đã sống sót qua các thử nghiệm sốc năm 2021 với chỉ những thiệt hại bề ngoài, chứng minh rằng chiếc tàu lớn này có thể chịu đựng cú gần trúng từ một vũ khí lớn như tên lửa đạn đạo chống tàu DF-21 của Trung Quốc và vẫn có thể thực hiện các hoạt động bay.

Với kích thước, sức mạnh, đội ngũ thủy thủ và lực lượng không quân khổng lồ, USS Ford có thể thực hiện các cuộc không kích chống lại các mục tiêu được bảo vệ nặng nề một ngày, chống lại một cuộc tấn công phức tạp trên không - biển - tàu ngầm vào ngày hôm sau, và cứu hộ dân thường từ thiên tai vào ngày tiếp theo nữa. Đây là vũ khí đa năng nhất từng được tạo ra — không có gì khác trên thế giới giống như nó.

Nguồn tham khảo: https://www.popularmechanics.com/military/navy-ships/a64589933/gerald-r-ford/
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga

Thành viên mới đăng

Back
Top